dối, hỡi những kẻ thật thà,
Ai có thể ngăn cản được điều những lời nói thật, hỡi những này, ai có thể đọc những điều đã kẻ ra đi, không bao giờ trở lại, đọc, ai có thể nhận biết những hỡi những kẻ ở lại, không bao điều đã nhận biết, ai có thể lấy giờ ra đi, hỡi những kẻ gạo chợ
ra những điều đã lấy ra?
nước sông, hỡi những kẻ nằm
gai nếm mật, hỡi những năm,
Tôi chưa nói một lời nào vì những ngày, những tháng, hỡi tôi chưa sống một lần nào, những ngày, những tháng, tôi chưa nói một lời nào vì tôi những năm.
chưa chết một lần nào, tôi chưa
là tôi một lần nào vì bầu trời Kịch giết kịch.
chưa hề có từ đầu, tôi chưa là Kịch cứu kịch.
tôi một lần nào vì trái đất chưa Kịch chẳng còn là kịch.
hề có từ đầu.
Kịch vẫn là kịch.
Tôi phải trở ra. Tôi phải trở ra Tôi phải đi. Tôi phải đi ngay.
ngay.
Chàààooo!
241 • Other Poetry
Tiếng người đàn ông hòa cùng tiếng nói từ hậu trường (hay nhiều người). Trong lúc sân khấu vẫn trống.
Câu chuyện chấm dứt ngay lúc chấm dứt. Mọi người có thể ra về
hay ngồi lại. Cấm hút thuốc với ai hút thuốc, không cấm hút thuốc với ai không hút thuốc (phải có giấy của bác sĩ tai mũi họng). Mọi người có quyền kể lại câu chuyện, nhưng tuyệt đối không được lập lại lời đã nghe, điều đã thấy, có nghĩa là phải tự giải phóng khỏi ký
ức, vì ký ức luôn luôn xuyên tạc và bóp méo sự thật (dù rằng sự
thật chưa bao giờ xuất hiện). Đeo mặt nạ để che dấu chân tướng, cảm xúc trong khi diễn tuồng vì kịch không cần cảm xúc, không cần cá tính, ai cũng như ai. Mọi người có thể cùng một lúc lên diễn lại vở kịch của mình, cãi và cọ, hay cọ và cãi, nhưng không được xâm phạm cơ thể hay thuần phong mỹ tục, và ra ngoài giới hạn quyền làm người (điều này mông lung, mờ ảo nhưng vẫn là một điều luật). Ai vi phạm sẽ bị trục xuất về chỗ ngồi. Những kẻ
say rượu sẽ bị treo bằng lái. Những bằng lái bị treo phải được treo ở nơi dễ thấy. Những bọn chim chuột, mèo mả gà đồng, những bọn vô công rồi nghề, những bọn ngủ bờ ngủ bụi, phải tuân theo luật (sân khấu), ra và vào, lên và xuống, không được lẫn lộn vai này với vai kia, cảnh này với cảnh nọ. Những kẻ nổi loạn cấm nổi loạn, những kẻ ngây thơ cấm ngây thơ. Những kẻ buôn thúng bán bưng luôn luôn buôn thúng bán bưng. Những kẻ lãng tai luôn luôn lãng tai. Những kẻ gà mờ luôn luôn gà mờ. Những kẻ chán cứ
chán. Những kẻ không chán cứ không chán. Mọi điều cần nói đã nói hết. Kể từ nay, cấm nói.
Người đàn ông bước ra từ phía trái, tiếng la ó nổi lên. Trở vào. Ló đầu ra. Tiếng la ó nổi lên. Nhiều lần như vậy.
Người đàn ông bước ra từ phía phải, tiếng la ó nổi lên. Trở vào.
Ló đầu ra. Tiếng la ó nổi lên. Nhiều lần như vậy.
Chiếc ghế được ném ra từ phía trái, tiếng la ó nổi lên, và kéo dài.
Chiếc ghế được ném ra từ phía phải, tiếng la ó nổi lên, và kéo dài.
Thơ Khác • 242
Những chiếc ghế liên tiếp được ném qua từ cả hai phía, phải và trái, chồng chất lên nhau. Tiếng la ó không dứt, lẫn với những âm thanh được phóng đại. Màn ảnh tắt. Sân khấu tối hẳn.
Im lặng. Sân khấu sáng dần, một đống ghế lẫn với cả những đồ
phế thải, giống như một kho chứa đồ cũ. Màn kéo lại. Vẳng ra tiếng dọn dẹp, tiếng quét, tiếng chân. Âm thanh được phóng cực đại.
Im lặng. Màn mở ra. sân khấu không có gì cả, và chừng như cũng chẳng có chuyện gì xảy ra. Khoảng một phút sau, màn kéo lại.
(Kịch tới đây chưa phải hết. Khán giả cùng lúc lên sân khấu để
diễn theo ý mình vì cho rằng, mỗi người đều có cách đạo diễn và thể hiện khác nhau, và rằng kịch bản là một phần trong cái kịch bản đã có sẵn của họ. Nếu không, đạo diễn, diễn viên và khán giả
có thể đẩy tới, chẳng hạn tranh luận về việc đạo diễn có theo đúng kịch bản, diễn viên có theo đúng đạo diễn hay không, mục đích là đi tìm, hay tạo ra ý nghĩa, khởi từ một tiền đề, vở kịch vô lý, đứt đoạn và rời rạc. Những diễn biến vở kịch trong khi tập được thu lại và phóng lên màn ảnh, như một cách diễn lại những hậu cảnh từ
đằng sau hậu trương, mang ý nghĩa, vở kịch bị lộn trái. Trong suốt tiến trình, đạo diễn làm cho vở kịch sống động nhưng tránh tạo cảm xúc, vì mục đích là tạo sự vô cảm nơi khán giả. Mọi hoạt cảnh có thể thay đổi nhưng tiếng nói phải giữ nguyên, dù hay dở, đúng sai, cũ mòn hay mới mẻ, vì giả thuyết rằng, tiếng nói đó từ trong quá khứ hay chính là quá khứ. Mà quá khứ thì chỉ tàn phai đi chứ
không bao giờ thay đổi được. Câu cuối cùng từ hậu trường, “Kể từ
nay, cấm nói,” nhưng ở phần này, cứ nói vì cũng được giả thuyết rằng, tiếng nói đang nói là tiếng nói đã được nói từ quá khứ. Kịch bị lộn trái nhiều lần, cho đến khi trở lại là chính đời thường).
HẾT
243 • Other Poetry
GIẢI MÃ THƠ
NỖI KHẮC KHOẢI THỜI GIAN VÀ NGÔN NGỮ
__________________________________________
Đỗ Minh Tuấn
Để ngày xanh rơi vào miệng vực
Trong thơ ca nhân loại, các thi pháp, trường phái và phong cách khác nhau dường như đều bắt đầu từ thái độ cảm nhận của thi nhân với thời gian. Mơn trớn thời gian, chiêm ngưỡng thời gian, đưa đón thời gian, chiêm nghiệm thời gian, lặn sâu vào kẽ nứt của thời gian, tìm lại thời gian đã mất, tách bạch thời gian yêu và thời gian chết, thời gian trần thế và thời gian nghi lễ, thời gian cô độc và thời gian lễ hội ... Tất cả những ứng xử khác nhau đó làm nền tảng tâm linh bản thể của những hành xử ngôn từ. Khế Iêm, ngay trong tập thơ đầu của mình đã nói bằng giọng điệu của thời gian. “Thanh Xuân”, tên tập thơ gợi một cảm nhận xanh mát trinh nguyên về
thời gian đầu đời, về hương sắc đầu mùa và những cảm nhận tươi non. Nhưng thực tế, cảm nhận về thời gian trong đó đã nhuốm màu mệt mỏi, chán nản, u hoài. Bàng bạc khắp tập thơ là một nỗi ám ảnh về sự trớ trêu của thời gian, sự lệch nhịp với dòng đời và độc chất hư vô của cõi thời – không, nơi nhà thơ luôn bị đong đưa giữa khoảnh khắc và vĩnh cửu.
Cuộc sống trong thơ Khế Iêm chớp nhoáng, mọi thứ lại như luôn trễ hẹn khiến ta phải đợi chờ:
Tin báo rằng mặt trời đã tận
Trái đất là một thoáng lửa trôi
Tin báo
Thơ Khác • 244
Chờ đợi
Mất hút
Lặng lẽ
Lá rơi trong khoảnh khắc
Ẩn mật
Mộng gõ tối tăm mắt rộn rã
Thoảng đưa hương ngâu thôn đời xa
Tắt
Thời gian bị trục trặc:
Lũ chim chóc đóng băng trong không
Và tháng ngày trôi bồng bềnh trên đất Thời khắc bị nhuốm độc bởi quá khứ và tương lai, mất đi cái trinh nguyên của hiện tại, bị cái chết của người, của lời, của cảnh vật, ám ảnh như âm binh:
Những người đưa ta từ bao đời trước đến
Những người chôn ta từ bao đời sau về
Âm binh...
Cơn gió nào thổi tan lời nguyện
Con sói về ăn những mảnh trăng
Bên cõi người một hồn nắng tuyệt
Có tiếng người ở giữa lòng chăng
Tin báo
Ngày của thi nhân, ngày của thơ ca là cái ngày xanh rơi vào miệng vực. Và, trong tư cách kẻ làm chứng cho cái chết được báo trước của thời gian, thi nhân luôn hoang mang, bối rối trước cõi hình tướng nhập nhòa, trôi nổi:
Mắt quáng gà
Hư thực nhập nhòa hoài
245 • Other Poetry
Bực bội
Quá khứ dở hơi
Mẩu thuốc cháy
Khói
Trải khắp những trang thơ là một cõi đời tàn phế. Dường như cõi thế làm bằng mây, khói, toàn cảnh nước trôi, hoa trôi, mây tan, nắng tàn, nắng lung lay, chim tan tác, khói bất trắc, khói điên, gió chiếc, gió thoảng, gió tất tưởi, đoá hoa khóc, trăng vù xa . .. Một thế gian rạn vỡ tưởng chừng như làm bằng mây khói. Mây và khói lan tỏa che phủ khắp cõi thơ Khế Iêm gợi ấn tượng về cõi phù vân theo cái nhìn của nhà Phật. Mây và Khói dường như là biểu tượng nơi sâu thẳm nhất của vô thức nhà thơ, bởi nó kết tụ được tất cả cái tính cách gây hấn, ngất ngưởng, bất trắc (khói điên, khói ngất ngưởng, khói bất trắc, khói thiêng), cái vô thường của hình tướng, cái sinh thành và tan rã làm lộ diện thời gian, cái hình hài mật ngôn và cái lặng thinh câm nín của cõi vô ngôn hằng quyến rũ. Không phải ngẫu nhiên, những bài thơ mới nhất của Khế Iêm là sự hòa trộn của ám ảnh lời, ám ảnh thời gian, ở đó, cả lời và thời gian đều bị giam trong dạng khói. Thơ Khế Iêm là một ngục-biếc-kép theo cấu trúc như vậy, nó là một tù ngục nhốt chung vĩnh cửu và mong manh, lên tiếng và câm nín. Và bao trùm lên tất cả là nỗi khắc khoải về thời gian và ngôn ngữ, được phóng chiếu vào hình tượng khói, là nơi có thể ký thác được cả cái trần thế và thiêng liêng, cái vô hình và hữu hình, cái vô ngôn và mật ngôn, cái hiển hiện và khuất lấp, cái ám ảnh và phôi pha. Khói là hình tượng trọng tâm của cụm hình tượng trong thơ Khế Iêm gồm: Khói, Tro, Mây, Gió, Trăng, Hoa. Trong đó, chỉ có khói và tro là nối với gia đình và đời thực, còn mây, gió, trăng, hoa đều đã bị cổ điển hóa, cách điệu hóa, vũ trụ hóa. Xem cấu trúc của hệ thống hình tượng cũng thấy được tâm thế phiêu diêu của thi nhân rung cảm nhiều hơn với bầu trời, với cõi không, dù vẫn lắt lay kết với cõi thực bằng tro và khói – hai hủy thể của thời gian. Mang cảm thức lênh đênh, thân phận một con đò chốc chốc lại hiện lên trong thơ Khế
Iêm dưới tia chớp giác ngộ về cõi thế hư ảo.
Thơ Khác • 246
Thảng thốt cội rễ lời
Cõi thực tan rã như vậy, còn lại cõi lời của riêng thi nhân cũng trở nên ấp úng. Nhà thơ hoài nghi ngôn ngữ, phỉ báng lời bằng những cảm nhận bi đát: quặn lời, hắt hiu lời, khỏa thân lời, ngôn ngữ điếc, hoài hủy nói. Nhà triết học, thiền sư biết rõ chân tướng của ngôn từ là giả trá và bất lực, ngay cả những ngôn từ thượng thặng như lời kinh cũng chỉ là vật che khuất bản lai diện mục của thế gian:
khom
lưng bất động như thế cho đến khi giọt
chuông chiều kia làm tan đi người và vật
kiến tạo im ắng mà lâu nay bị
che khuất bởi cánh liếp của lời kinh Níu lại
Lời là chiếc bình phong lộng ngôn cần phải xé đi, là thứ vô tích sự, chẳng làm ai phiền hà gì, chỉ chạy theo đuổi thiên nhiên, khi nào gió lên thì bảo. Nhà thơ ngộ ra một tình huống: lúc khởi sinh
ngôn từ đã bắt đầu gầy mối hiểm nguy Con người là kẻ:
cầm lời đi vào chỗ không hề biết trước Cũng vẫn cái tư tưởng “Khởi thủy là lời” của Kinh Thánh, nhưng trong thơ Khế Iêm lời là mối nguy hiểm đầu tiên. Nếu Hölderlin coi ngôn ngữ là thứ làm chứng cho bản thể con người, thì Khế Iêm coi lời là sự xuyên tạc bản thể. Hơn một lần, nhà thơ để lộ địa chỉ
cõi đẹp của mình ở chốn không lời và loay hoay giải thoát khỏi 247 • Other Poetry
cõi lời, đốt cháy lời, chôn cất chữ để khai quang cái đẹp miên viễn kia :
đốt cháy lời
để mai kia mốt nọ
không truyền giao
không sách sử
nhưng ở bên kia chốn không lời
đóa hoa nở
Lời
đánh một giấc đồng
lòa chôn cất cho xong
mộ phần chữ
Lộng ngôn
Trong lúc chưa đạt tới cõi vô ngôn, chưa tới được đóa hoa trí huệ
(Prâna) trong tâm thức thì thái độ sống thường trực của nhà thơ
là:
đành chịu trầm mình không nói năng giữa thế giới vắng mặt (và có mặt)
Trầm mình
đánh
đổi lấy mạng sống bằng cách ngậm họng
lại
cấm
tuyệt đối không được thốt ra một lời nào Cấm
Thơ Khác • 248
Im lặng là cõi lời giả dạng vô ngôn, không phải vô ngôn đích thực.
Im lặng là lời lẩn trốn, tàng hình, nhức nhối, chưa phải là sự tiêu vong. Nhà thơ hướng tới mật ngôn tới cõi Đẹp vô ngôn: Thảng thốt
Cội rễ lời
Ta nghe dâu ngàn hoá bụi
Vô ngôn từ thuở nằm nôi
Phiêu khúc
Và có lúc, cõi lời đã như một quá khứ xa, một thuở nào, một hồi ức vang vọng và biến tấu:
Thuở lời, vọng tiếng chim ran
Đò quê, mật sóng giữa đàng lá không
Nhưng thi nhân đâu dễ thoát khỏi cõi lời, thoát khỏi cái bản thể
được Chúa trời ban tặng. Trong nỗi khắc khoải nhớ hư vô, khao khát mật ngôn, nhà thơ ngồi ngó xéo vào vết nứt của im lặng để
lắng nghe vọng tiếng chim ran, cố bắt lấy tiếng nói của muông thú, rồi học theo kẻ kiến tạo im lặng để diễn kịch lặp đi lặp lại, trong khi đó vẫn cố vớt vát những lời đang hấp hối để đối thoại với bông hoa mới nở – sứ giả của cõi đẹp mới khai sinh: nói với đóa hoa chớm nở
lời chớm tàn
và phủ định mọi dấu vết
đã có từ lâu trên mặt đất Dấu vết
Dù biết rằng đóa hoa ấy, cái đẹp đích thực ấy không nở ở cõi lời: nhưng ở bên kia chốn không lời
đóa hoa nở
249 • Other Poetry
Và cái đẹp, tình yêu đã hiện diện lồ lộ ở cõi khác, như một cứu cánh có đủ thẩm quyền bắt nhà thơ tắt tiếng: Ta tắt tiếng từ bao giờ không biết
Lúc nhìn em lồ lộ ngoài hư không
Lúc ta theo vồ vập màu chiều tà
Và chỉ thấy bụi rơi cùng nắng lạ
Thanh xuân
Cõi đời vô thường, ngôn ngữ vô ích và vô nghĩa. Con người mang lời nói để làm những việc phi lý. Ngôn ngữ bị mất đối tượng, trở
nên một công cụ, bị thời gian lố bịch hoá, trở nên loang lổ, nham nhở, nhạt nhòa:
Tôi ngồi lại phân bua cùng nước cuốn Ưu sầu
Kẻ kiến tạo im lặng
Trong thơ Khế Iêm, con người mang cái ngôn ngữ bất lực, lôi thôi đi giữa một thế giới đầy khói ám, đom đóm, hoàng hôn, trắng lân tinh, đá gầm rú, một thứ địa ngục ghê rợn của Dante để mà sừng sộ, phân bua với thế giới ấy. Và để rùng mình trước những mật ngôn, mật sóng thăm thẳm vây quanh. Trên nền cảnh giới nín câm và bí ẩn đến rùng rợn đó, ngôn từ càng trở nên bé nhỏ, lố lăng và yếu ớt biết bao. Trong thơ Khế Iêm, con người giống như một tử
tù đeo tảng đá ngôn từ đi rong bên lề cõi lời, muốn vượt khỏi ngục biếc của cõi lời để hướng tới tự do. Nhưng hắn không thoát nổi thời gian, không thoát nổi cõi lời vì dai dẳng trong linh hồn hắn một năng lực phục sinh của cái thế gian đang tàn tạ: Hãy ngồi lại nghe hơi thở tàn
Trên đầm sen vạn màu hôn ám
Thơ Khác • 250
Em không hay một chiều tiễn biệt
Ta thổi tan mất dòng lửa đầu
Trong nôi nắng phôi pha
Dập dồn mở lại
Cánh chiều xưa
Cánh chiều xưa
Mây nước xưa
Ưu sầu
Thời gian hư ảo, mong manh và tàn lụi, nhưng nó chính là kẻ mai phục trong ký ức để bất kỳ sống lại. Mỗi khoảnh khắc cụ thể của đời ta có thể phôi pha, vụt mất, và con người không thể dùng ngôn ngữ để phân bua với nó, sừng sộ với nó, níu kéo nó lại, nhưng nó vẫn không mất đi vì chỉ cần ta ngồi nghe hơi thở tàn, trên đầm sen vạn màu hôn ám, chỉ cần ta cận kề với cái đẹp ám bụi của đời sống để lắng nghe chút hơi tàn của nó là thời gian đã chết sẽ lại phục sinh như một tài sản vĩnh hằng, một ngục biếc ta muốn thoát mà không thể thoát. Chính cái năng lực kỳ lạ và sức giam hãm của thời gian, sức quyến rũ của cõi đời hư nát, sức níu kéo rủ rê của tình đời nham nhở đã hủy hoại tự do của con người, khiến nó luôn dùng dằng ở biên giới của cõi đời và đạo, cõi lời và lặng im.
Thi nhân không thoát được ngục biếc của thời gian và ngôn ngữ, nhưng lại luôn muốn đào thoát khỏi cõi thế, cõi lời, luôn phóng tầm mắt tìm kiếm đóa hoa nở trong cõi không lời, khát khao hòa nhập vào hư không. Vĩnh cửu với hư không và im lặng đã lây nhiễm vào dòng đời làm nát thêm thời gian, làm rã mọi hình tướng và ngôn ngữ. Đó là cái cách Khế Iêm tái tạo một thế giới làm bằng mây, khói, ánh trăng, đom đóm, lân tinh và những lời nham nhở. Nhà thơ sau khi hủy hoại thời gian, hủy hoại thế giới lại nuối tiếc thời gian và ngôn ngữ đã tàn hơi. Anh ta ký thác những hạt cát khoảnh khắc của mình trong sa mạc, đặt những bóng người, những cuộc tiễn biệt, những chiều nắng, những đầm sen vào vũ trụ
vô cùng tận, và bằng cái nhìn triết học đó, anh ta đã đánh đắm từng khoảnh khắc, hủy diệt những hình hài, khống chế ngôn ngữ, đầu 251 • Other Poetry
độc từng ngày sống. Thơ Khế Iêm là bi kịch, nỗi đau của sự đánh mất thời gian, nhiễm độc hư vô. Chứng viễn thi siêu hình khiến nhà thơ nhìn rõ những gì vô hình ngoài thời gian, còn những gì hữu hình trong thời gian lại trở nên mờ nhạt. Do đó, cái nhìn của nhà thơ là cái nhìn hủy diệt thời gian, ghê sợ thời gian nhưng lại khát khao và luyến tiếc thời gian.
Khế Iêm trong thơ là một thiền sư lưu luyến cùng đời sống, một quả lắc đong đưa giữa cô độc với sẻ chia, giữa đạo sĩ và người tình, giữa hủy diệt và xây dựng, giữa sự vượt thoát, đạp đổ và sự
tiếc nuối, nở hoa. Cho nên, Ngục Biếc là cái tên chẳng vô tình, nó là tự thú của một người vừa muốn tự do, vượt thoát mọi ngục tù, vừa ôm giữ cái nhìn mỹ lệ hóa căn nhà ngục mình đang bị giam hãm. Cái nghịch lý sâu thẳm đó dẫn đến những cuộc phiêu lưu mỹ
học oái oăm: dấn thân vào ngục tối để tìm tự do, phơi bày quyền lực hủy hoại ngôn ngữ của thời gian để cứu vớt ngôn từ, chối bỏ
ngôn ngữ để đi tìm lại ngôn ngữ.
Cái luẩn quẩn hôn phối giữa tự do và nô lệ, giữa lời nói và im lặng, giữa minh triết và mật ngôn ấy, chính là cái vòng xoáy mãnh liệt của tâm thức quanh cái lỗ đen hư vô, nó cuốn tất cả mọi hình tướng, mọi ngôn từ trong cơn xoáy tâm linh sâu thẳm, tạo nên trong nhà thơ một thứ stress thơ ca. Cái stress độc đáo và mãnh liệt ấy là cội nguồn của một thi hứng, một giọng điệu đặc biệt có một không hai: giọng độc thoại, nhấm nhẳng, cà khịa, bất cần pha chút nổi khùng bất chợt.
Khế Iêm không mê đắm trong